Các hoạt động

Khởi động “Sáng tạo từ Trái tim” cuộc thi Sáng kiến vì người khuyết tật

🌼Đích đến của CẢI TIẾN và SÁNG TẠO là gì, nếu không phải để đem đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người?

Nếu bạn là:
🔸 Chuyên gia Phục hồi chức năng
🔹Kỹ thuật viên Vật lý trị liệu, Hoạt động trị liệu
🔸 Bác sỹ
🔹Điều dưỡng
🔸 Kỹ thuật viên Chỉnh hình, thiết kế thiết bị dụng cụ Phục hồi chức năng…
Hoặc bạn đang học tập, làm việc trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ cần có:


* Đam mê sáng tạo, khát khao cống hiến cho cộng đồng, góp phần giúp người khuyết tật trở nên độc lập trong cuộc sống? ♿️


–> Đừng bỏ lỡ Sáng tạo từ Trái tim, cuộc thi sáng tạo vì người khuyết tật với hai Hạng mục CHUYÊNKHÔNG CHUYÊN.

🏆🎉Sáng tạo từ Trái tim được tổ chức bởi Humanity & Inclusion Việt Nam và USAID, phối hợp cùng MCNV, ACDC và JICA.

Cùng tìm hiểu về cuộc thi tại website www.homemadewithheart.vn để đăng ký tham dự với chúng tôi nhé! ✍️

Hạn chót: 10/8/2020!!!

Read more

Ký biên bản ghi nhớ với Cục Quản lý Khám, chữa bệnh về Phục hồi chức năng

Sáng 2/6, tại Hà Nội, Giám đốc quốc gia MCNV, Thạc sỹ Phạm Dũng đã tham gia lễ ký biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) và 8 tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế về hoạt động Phục hồi chức năng.

Biên bản ghi nhớ thể hiện cam kết triển khai thực hiện hiệu quả các hoạt động thúc đẩy phát triển ngành phục hồi chức năng Việt Nam và các hoạt động trợ giúp người khuyết tật.

08 tổ chức tham gia ký Biên bản ghi nhớ gồm: Trung tâm Hành động vì sự phát triển cộng đồng (ACDC); Hội Trợ giúp Người khuyết tật Việt Nam (VNAH); Humanity & Inclusion (HI), the International Center (IC); Viện dân số, sức khỏe và phát triển (PHAD); Trung tâm Phát triển Sức khỏe Bền vững – VietHealth, Trung tâm Sáng kiến Sức khoẻ và Dân Số (CCIHP); Ủy ban y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV),

Cùng ngày, đại diện MCNV cũng đã tham gia Hội thảo góp ý Luật Khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi (Điều số 93 về Phục hồi chức năng).

Cục Quản lý Khám chữa bệnh ký kết với 8 tổ chức phi chính phủ về Hoạt động phục hồi chức năng – Cục quản lý khám chữa bệnh

 Theo tổng điều tra quốc gia về người khuyết tật do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố vào tháng 1/2019, có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, tương đương 7,09% dân số. Báo cáo cũng cho biết, có 13% dân số Việt Nam, ước tính gần 12 triệu người, sống chung trong hộ gia đình có người khuyết tật. Bên cạnh đó, Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, với khoảng 11 triệu người cao tuổi, do đó nhu cầu Phục hồi chức năng là rất cao.

Read more

Tuyển tư vấn đánh giá cuối kỳ Dự án

Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) là một tổ chức phi chính phủ của Hà Lan hoạt động tại Việt Nam từ năm 1968 trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và các chương trình phát triển cộng đồng khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam. 

MCNV thực hiện Dự án “Phát hiện sớm, Can thiệp sớm và Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại Cao Bằng” từ năm 2002 đến 2019. Trước khi chuyển giao Dự án vào cuối năm 2020, MCNV và đối tác tại Cao Bằng thống nhất thực hiện một hoạt động đánh giá cuối kỳ Dự án.

MCNV cần tuyển 01 chuyên gia tư vấn để thực hiện hoạt động Đánh giá cuối kỳ Dự án này. 

Ứng viên nộp hồ sơ dự tuyển gồm: 

  • 01 CV (tiếng Anh và tiếng Việt);
  • Thư bày tỏ sự quan tâm và đề xuất thực hiện hoạt động.

Địa chỉ email nhận hồ sơ: thuy.nguyenthanh@mcnv.vn

Hạn cuối nộp hồ sơ: ngày 20/6/2020.

Để biết thêm chi tiết, vui lòng xem bản Điều khoản tham chiếu đính kèm và liên hệ đến số điện thoại: 0986607351 hoặc 0243 8359005 (máy lẻ 25).

Link file: https://drive.google.com/file/d/10A6SncUa59mq9vmvbL3lP7Gc6MbUz3r-/view?usp=sharing

Read more

Hứa hẹn những mùa gặt nơi rẻo cao

Chậm rãi cuốc bộ bên những thửa đất rộng vừa được san ủi bằng phẳng trên khu vực đồi núi thuộc thôn Cựp, xã Húc Nghì, huyện Đakrông, ba chàng trai khuyết tật đồng bào Vân Kiều hồ hởi trò chuyện về những dự định trong tương lai gần.

(Từ trái qua) Các anh Hồ Văn Chế, Hồ Văn Ngơi và Hồ Văn Nghiên. Ảnh: Phan Tân Lâm

“Đất của mình rộng. Mình sẽ dành một thửa để trồng lúa nước, còn một thửa để làm trại nuôi gà.” Hồ Văn Chế, 41 tuổi, một tay chống nạng, tay kia chỉ về hai thửa đất liền kề vừa được san ủi của mình, tươi cười thổ lộ ý định của bản thân.

“Còn em chưa lập gia đình và đang dựa dẫm hoàn toàn vào bố mẹ. Sắp tới em sẽ làm ruộng lúa nước để có thể sẻ chia lương thực cùng bố mẹ. Như vậy, em sẽ cảm thấy mình bớt vô dụng.” Hồ Văn Ngơi, 36 tuổi, cố ngẩng mặt lên một chút để thổ lộ tâm sự. Nửa trên cơ thể của Ngơi bị gập về phía trước do khuyết tật bẩm sinh nên anh rất khó khăn mỗi khi ngửng đầu nhìn thẳng về phía trước. Nhưng không khó để thoáng nhận ra nụ cười mỉm mang nhiều hy vọng trên khuôn mặt hơi chúi xuống của anh.

Hồ Văn Nghiên, 26 tuổi, thì ôn tồn nhẩm tính: “Giờ cũng sắp đến mùa mưa rồi. Nước mưa sẽ làm giàu cho đất và làm ổn định đất. Đến cuối năm nay là có thể gieo mạ, và tháng 4 năm sau sẽ là mùa gặt lúa nước đầu tiên của ba anh em mình.”

Anh Hồ Văn Ngơi (trái) và Hồ Văn Chế. Ảnh: Phan Tân Lâm

Nghiên đã lập gia đình và có 3 cậu con trai nhỏ. Giống như nhiều gia đình khác ở thôn Cựp, vợ chồng Nghiên dành phần lớn thời gian làm lụng vất vả trên những đồi lúa rẫy xa nhà để có cái ăn cho cả nhà. Khi những cơn mưa đầu mùa đến vào đầu tháng 6, vợ chồng Nghiên bắt đầu đi trỉa lúa. Những hạt giống chắc khỏe được “gửi gắm” vào đất núi chờ nảy mầm. 3-4 tháng sau là đã có thể tuốt lúa.

Thế nhưng, Nghiên cho biết, lúa rẫy thu hoạch mỗi năm chỉ được một vụ, và mỗi vụ chỉ được khoảng 5 bao (tức 1,5 tạ), chỉ đủ ăn cho gia đình trong chưa đầy 3 tháng. Trong khi vợ ở nhà chăm con, Nghiên phải dành nhiều thời gian đi làm thuê kiếm tiền mua gạo cho gia đình dùng trong những tháng còn lại trong năm. Một số chủ rừng ở địa phương thuê nhân công thu hoạch rừng keo khi đến vụ. Nghiên có thể kiếm 150.000đ/một ngày công, nhưng công việc này là hết sức thất thường.

“Làm lúa rẫy cũng vất vả lắm vì vừa xa nhà, vừa phải trèo cao.” Trầm ngâm một lúc, Nghiên chia sẻ tiếp, “Với người thường đã rất vất vả, huống hồ chi nói đến với những người khuyết tật như bọn em. Riêng như em đây, từ nhà đến rẫy khoảng 4 cây số đường gập ghềnh, đi bộ hơn một tiếng đồng hồ mới đến nơi. Em hỏng mắt thì còn đi được, chứ khuyết tật như anh Chế và anh Ngơi thì làm sao mà đi được!”.

Chế, Nghiên và Ngơi không phải không có đất sản xuất nông nghiệp gần nhà. Gia đình cả ba chàng trai khuyết tật này đều được xã cấp đất sản xuất từ lâu, nhưng vì đất đai cằn cỗi và địa hình đồi dốc gập ghềnh nên các anh không thể làm lụng được gì trên mảnh đất của chính mình. Chỉ đến gần đây khi nhận được sự hỗ trợ san tạo mặt bằng, các anh mới tìm thấy niềm hy vọng về những vụ mùa lúa nước trĩu bông trên những thửa đất tuy cũ mà mới của mình.

Tương lai tươi sáng đang chờ đợi Hồ Văn Chế và nhiều người khuyết tật đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: Phan Tân Lâm

Hỗ trợ san tạo mặt bằng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người khuyết tật đồng bào dân tộc thiểu số là hoạt động trọng tâm của dự án “Thúc đẩy tiếp cận đất ở và đất nông nghiệp cho các hộ gia đình người khuyết tật đồng bào dân tộc thiểu số” do MCNV phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh Quảng Trị và Hội Người khuyết tật – Nạn nhân Da cam/Dioxin, Bảo trợ Người khuyết tật và Bảo vệ quyền trẻ em (Hội NKT-NNDC, BTNKT & BVQTE) tỉnh Quảng Trị triển khai ở các huyện miền núi Đakrông và Hướng Hóa của tỉnh.

Dự án được hỗ trợ tài chính bởi Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2020. Dự kiến sẽ có khoảng 100 hộ gia đình của những người khuyết tật như Chế, Ngơi và Nghiên được hỗ trợ san tạo mặt mặt đất ở và đất sản xuất nông nghiệp. Hàng trăm hộ gia đình người khuyết tật khác sẽ hưởng lợi từ dự án nhờ được tiếp cận tốt hơn với các thông tin, chính sách, dịch vụ về quyền sử dụng đất, đồng thời Hội NKT-NNDC, BTNKT & BVQTE tỉnh Quảng Trị cũng được nâng cao năng lực trong việc hỗ trợ hội viên người khuyết tật tiếp cận tốt hơn với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước dành cho người khuyết tật.

Mới hôm qua, Chế, Ngơi và Nghiên còn trầm tư, lo lắng vì gia đình luôn thiếu gạo ăn. Hôm nay, các anh đã bắt đầu hình dung về những ngày thu hoạch vụ lúa nước đầu tiên trên mảnh đất của mình. Ngày đó không còn xa …!

Read more

Những sản phẩm từ cây tre: Điểm sáng từ núi rừng Bắc Hướng Hóa

Từ năm 2018, Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã hỗ trợ một số hộ dân ở các thôn Chênh Vênh (xã Hướng Phùng), thôn Cù Bai (xã Hướng Lập) và thôn Tà Puồng (xã Hướng Việt), huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị sản xuất một số sản phẩm từ cây tre để cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước.

Đây là một sáng kiến hướng đến vận động cộng đồng hạn chế sử dụng các vật dụng vô cơ dùng một lần sang sử dụng các sản phẩm hữu cơ thân thiện với môi trường, đồng thời tạo cơ hội phát triển sinh kế cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều, Pa Cô ở tỉnh Quảng Trị.
Các sản phẩm hiện đang được sản xuất ở các thôn nói trên bao gồm: ống hút, hộp đựng bút hoặc đựng các vật dụng cá nhân khác, ống đựng nến sáp và bộ dao, thìa, nĩa du lịch. Tất cả đều được làm bằng các loại tre sẵn có ở địa phương như lồ ô, luồng, len xanh, a ho, li a, …
MCNV cho biết hiện nay thôn Chênh Vênh có 10 hộ tham gia sản xuất ống hút từ cây len xanh. Trong năm 2019, các hộ dân trong thôn đã sản xuất với sản lượng khoảng 50.000 ống, với giá thành từ 1.000 – 3.000 đồng/ống tùy theo chất lượng, qua đó đạt doanh số gần 100 triệu đồng/năm, tương đương khoảng 10 triệu đồng/hộ.
Cây len xanh thường mọc tự nhiên trên các lèn đá, gần các thác nước ở trên cao, mỗi năm chỉ khai thác được một lần khi cây đã già. Mỗi gốc cây len xanh cho khai thác được khoảng 5 – 8 cành/năm, mỗi cành cho khoảng 7 -10 đốt, khoảng cách giữa các đốt khoảng 20 – 25 cm. Sau khi khai thác về, các hộ dân sử dụng máy cắt tre do MCNV hỗ trợ, cắt len xanh thành từng ống dài 18 – 23 cm, sau đó luộc vô trùng trong 5 – 6 giờ đồng hồ.

Sau khi luộc, len xanh được lau hết lớp nhớt bám trên bề mặt ngoài và làm sạch lớp phấn bên trong lòng ống, được phơi nắng trong 7 – 8 ngày rồi mài nhẵn hai đầu ống và bó thành từng bó nhỏ để cung ứng cho thị trường.

Chị Hồ Thị Xăng (phải) và Hồ Thị Lý, 2 trong 10 thành viên của nhóm sản xuất tre thôn Chênh Vênh, xã Hướng Phùng (Ảnh: Nguyễn Thanh Tùng)

Chị Hồ Thị Xăng, một thành viên trong nhóm sản xuất thôn Chênh Vênh cho biết việc được hỗ trợ sản xuất ống hút tre mang đến niềm hi vọng đổi thay về kinh tế. Chị Xăng bảo, trước đây, hai vợ chồng ngoài đi làm rẫy, đi rừng thì ai kêu gì làm nấy. Đầu tắt mặt tối cả ngày nhưng không đủ ăn. Con cái nhỏ nên chị phải ở nhà chăm con, gánh nặng dồn lên vai chồng, chuyện thiếu đói thường xuyên diễn ra.
“Tuy việc làm ống hút tre khá công phu, đòi hỏi tuân thủ các bước để đảm bảo đẹp, vệ sinh, đúng kích thước, nhưng làm nhiều rồi thành quen. Giờ chỉ cần siêng năng thì tháng nào cũng kiếm ra tiền từ việc làm ống hút tre”, chị Xăng bộc bạch. Cách làm ăn mới không chỉ giúp những người phụ nữ như chị Xăng tìm ra phương kế đổi thay đời sống kinh tế mà còn giúp “kéo” nhiều người đàn ông ra khỏi bàn rượu, lên rừng chặt tre về sản xuất ống hút.

Chị Hồ Thị Xăng rạng rỡ bên nồi luộc ống hút tre (Ảnh: Phan Tân Lâm)
Theo ông Hồ Văn Noi, một thành viên khác của nhóm sản xuất tre thôn Chênh Vênh, các hộ dân tham gia sản xuất ống hút tranh thủ những khi đi làm trên rẫy để khai thác len xanh và tranh thủ sản xuất ống hút những khi nông nhàn, bình quân mỗi hộ có khoảng 2 người tham gia sản xuất. Khó khăn hiện nay là số lượng cây len xanh tại địa phương ít và sinh sống ở những nơi hiểm trở rất khó khai thác. Do đó, mỗi năm người dân nơi đây chỉ khai thác len xanh trong khoảng thời gian vài tháng là thiếu nguyên liệu sản xuất.
Ông Phan Ngọc Long, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng, chia sẻ: Được sự hỗ trợ và hướng dẫn của MCNV, người dân thôn Chênh Vênh rất tích cực tham gia mô hình sản xuất ống hút từ cây len xanh. Do cây sống hoàn toàn tự nhiên nên rất hạn chế về nguồn nguyên liệu, mong các sở, ban, ngành liên quan quan tâm hỗ trợ, nghiên cứu các giải pháp mở rộng diện tích trồng cây len xanh, chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất, tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống cho các hộ dân, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Để đa dạng hóa hoạt động sản xuất và sản phẩm từ tre, ngoài ống hút từ cây len xanh, MCNV đã hỗ trợ cho 3 nhóm sản xuất ở 3 thôn tiếp tục sản xuất các sản phẩm khác từ các loại tre khác rất sẵn có ở địa phương, đặc biệt là cây a ho (tên gọi theo theo tiếng Vân Kiều) và lồ ô. Bên cạnh hỗ trợ xây dựng nhà phơi sấy, cung cấp máy móc và hướng dẫn tổ chức sản xuất cho các nhóm, MCNV còn tổ chức các lớp học nghề tiện tre cho một số thành viên chủ chốt của các nhóm sản xuất và cùng các nhóm tìm hỏi, học hỏi cách sản xuất ra các sản phẩm ngoài ống hút. Hộp đựng bút và vật dụng cá nhân, ống đựng nến sáp và bộ dao, thìa, nĩa du lịch là những sản phẩm như vậy.

Việc sản xuất những sản phẩm này đòi hỏi sự tỉ mỉ, sáng tạo, tinh tế và sự chịu khó của người sản xuất. Bù lại, khi xuất hiện trên thị trường, những sản phẩm này được người tiêu dùng rất ưa thích và đánh giá cao, đặc biệt là với khách nước ngoài. Hiện nay, Hội An Roastery, một doanh nghiệp tại Quảng Nam là đơn vị bao tiêu những sản phẩm này để bán phục vụ khách nước ngoài đến tham quan du lịch tại Phố cổ Hội An.

Ở thôn Cù Bai, xã Hướng Lập, ống tre là sản phẩm chủ lực. Ảnh: Lê Minh Vũ

Trong tương lai gần, MCNV tiếp tục giúp các nhóm sản xuất tăng cường kết nối đến các thị trường trong nước và ngoài nước. Hiện nay, song song với hoạt động sản xuất, các nhóm cũng chú trọng đến việc phát triển vùng nguyên liệu, đặc biệt là trồng thêm cây len xanh ở các khu vực đồi núi gần nhà.
Hiện đã có 20 hộ gia đình ở 3 xã Hướng Phùng, Hướng Việt, Hướng Lập tham gia sản xuất các sản phẩm từ tre. Đây là giải pháp thiết thực, vừa giúp bà con tăng thu nhập, vừa giúp bà con đóng góp tích cực cho thị trường sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
“Thời gian tới, chúng tôi giúp bà con phát triển vùng nguyên liệu tre, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng liên kết thị trường”, một cán bộ dự án của MCNV cho biết thêm.

Con gái một thành viên nhóm sản xuất thôn Chênh Vênh, xã Hướng Phùng và những sản phẩm ống hút đã hoàn thiện. (Ảnh: Phan Tân Lâm)

Nhìn những đôi tay chai sần đã quen với việc làm nương, làm rẫy nay miệt mài sáng tạo những sản phẩm từ tre, những gương mặt sạm nắng giãn ra với nụ cười vui mà trong lòng người viết dâng lên bao bồi hồi, xúc cảm. Ngày mai, các sản phẩm tre kia của bà con sẽ được chuyển về phố xá, ra nước ngoài, thu nhập của bà con sẽ khấm khá và đều đặn hơn nhiều lần những vụ mùa trên nương rẫy nhờ trời. Những sản phẩm từ cây tre đang thực sự góp phần thay đổi cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số ở những dãy núi xa xôi, hẻo lánh vùng biên ải.

Read more

Tín dụng tiết kiệm: Nguồn tiếp sức tin cậy của phụ nữ Bến Tre

Ở huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, hơn 10 năm nay, có một dự án được ví như nguồn tiếp sức tin cậy, giúp hàng ngàn phụ nữ vượt khó, thoát nghèo, vững vàng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Những đồng vốn thoát nghèo

Trước đây, gia đình chị Trương Thị Phượng (sinh năm 1972) ngụ ở Ấp Phú Thành, xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre sống dựa vào nguồn thu nhập từ mảnh vườn nhỏ trồng rau và số tiền công khiêm tốn từ việc làm thuê, làm mướn của hai vợ chồng. Dù siêng năng, cần mẫn lao động nhưng cuộc sống gia đình anh chị vẫn không tránh được cảnh “thiếu trước, hụt sau”. Hai con trúng tuyển Đại học, anh chị vừa mừng vừa lo. Mừng vì tương lai của con sẽ sáng sủa hơn cha mẹ, lo vì việc con thành sinh viên sẽ kéo theo chồng chất chi phí trong suốt 4 năm.

Bước ngoặt đến với gia đình chị Phượng vào năm 2015, khi chị trở thành thành viên Hội liên hiệp Phụ nữ xã Phú Vang và được tiếp cận với Dự án tín dụng tiết kiệm của Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) và các nhà tài trợ.

Với nguồn vốn được hỗ trợ, vợ chồng chị Phượng nhanh chóng lên kế hoạch thoát nghèo. Anh chị sử dụng một phần vốn để mua gà, vịt về nuôi, phần còn lại chị Phượng dùng để mở một tiệm tạp hóa nhỏ.

Chị Trương Thị Phượng bên tiệm tạp hóa được mở nhờ nguồn vốn hỗ trợ bởi Dự án của MCNV

Chị Phượng tâm sự: Thời gian đầu, do còn thiếu kinh nghiệm, việc chăn nuôi và buôn bán cũng gặp khó khăn. Nhưng nhờ tích cực tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật do hội phụ nữ phối hợp tổ chức, anh chị đã nhanh chóng nắm bắt được nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cũng như kinh doanh. Số tiền lãi từ đây không chỉ là nguồn thu nhập ổn định trang trải cho đời sống gia đình, và dành dụm thêm để làm vốn quay vòng đầu tư, bên cạnh việc vay từ dự án.

Qua nhiều chu kỳ vay, qua tư vấn của cán bộ dự án và các chị em đi trước, chị Phượng đã mua thêm được 01 con bò cái, cho sinh sản thêm 02 con. Trừ hết chi phí chăn nuôi, gia đình có khoản thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi năm. 

Việc chăn nuôi bò ít tốn thì giờ, nên cùng lúc, chồng chị Phượng có thời gian làm thêm bên ngoài. Với các công việc như phụ hồ, lưới cá, mỗi ngày anh có thể kiếm được hàng trăm nghìn đồng.

Sau 5 năm tham gia Dự án tiết kiệm tín dụng của huyện Bình Đại, vợ chồng chị Trương Thị Phượng đã quyết định làm đơn xin ra khỏi diện hộ nghèo. Từ chỗ “thiếu trước, hụt sau”, giờ đây anh chị đã xây được nền tảng kinh tế vững vàng, nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn, có việc làm ổn định. Căn nhà lụp xụp ngày nào cũng được sửa sang lại kiên cố, tiện nghi. 

Kinh tế ổn định, chị Phượng có thêm thời gian cho các sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, chị luôn nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm làm ăn với bà con lối xóm, các hội viên phụ nữ, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Chị tâm sự:

“Một nắm khi đói bằng một gói khi no”, hơn ai hết, mình hiểu cái cuộc sống khổ, nghèo, thiếu thốn như thế nào, nên giờ giúp được ai điều gì là mình sẵn lòng giúp đỡ”.

Đi lên từ cảnh hàn vi, chị luôn ghi nhớ: Chính những đồng vốn và sự hỗ trợ của hội phụ nữ đã giúp chị “khởi nghiệp” và có được cuộc sống ổn định, no ấm như hôm nay…

Nước ngọt chống hạn

Những năm gần đây, Bến Tre phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của xâm nhập mặn. Nguồn nước sinh hoạt do nhà máy nước cung cấp cho các đô thị trên địa bàn tỉnh cũng như hệ thống nhà máy của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bến Tre đã nhiễm mặn trên 2‰. 

Hạn mặn đang diễn ra gay gắt ở tỉnh Bến Tre. Ảnh minh họa: TTXVN

Nằm trên cù lao An Hoá, bốn phía sông, biển bao quanh, huyện Bình Đại là địa bàn bị đe dọa bởi xâm nhập mặn, độ mặn cao, mức độ xâm nhập sâu. Người dân lao đao vì đồng chua mặn khó chăn nuôi, trồng trọt, nước ngọt cho sinh hoạt, sản xuất khan hiếm.

Trong “cuộc chiến” chống hạn mặn gắt gao đó, Bình Đại đã may mắn được tiếp sức bởi dự án Tín dụng tiết kiệm. Song song với hỗ trợ vốn vay sinh kế,  Dự án đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các hộ nghèo, cận nghèo và hộ khó khăn tiếp cận vốn vay để xây ống hồ, mua dụng cụ trữ nước mưa, nước ngọt phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất.

Tới nay, 954 hộ đã được Dự án hỗ trợ tự xây ống hồ trữ nước. Từ đầu năm đến nay, dự án tiếp tục hỗ trợ cho 149 hộ vay và đang tiếp tục được chị em hưởng ứng đông đảo. 

Chị Nguyễn Thị Kim Oanh (ấp Tân Long, xã Thạnh Phước) cho biết: “Năm 2016, tôi đăng ký vay vốn từ Dự án 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ chứa khoảng 4m3 nước; tiền vật tư, tiền thợ, xây ống hồ hết 6 triệu đồng…”

Chị cho biết, với 2 ống hồ nước mưa cả năm gia đình sử dụng không hết. Vào mùa nắng, nhà chị sử dụng thêm nước giếng nên dư nước mưa.

Chị Nguyễn Thị Kim Oanh bên ống hồ chứa nước của gia đình

Thấy được lợi ích lâu dài, năm 2018, chị tiếp tục vay thêm 5 triệu đồng từ Dự án, vận chuyển cát, đá, xi-măng về để xây thêm 2 ống hồ chứa khoảng 6 m3 nước, kinh phí khoảng 7 triệu đồng.

“Nhờ xây ống hồ chứa nước mà trong tình trạng nước mặn này gia đình tôi mới có nước sử dụng sinh hoạt, còn hiện tại nước máy đã mặn không thể nào sử dụng được…”, chị chia sẻ.

Chị Nguyễn Thị Phương Thảo (sinh năm 1985) ở ấp Vinh Tân, xã Vang Quới Đông cũng là một trong những người đã được vay vốn để tự xây dựng hệ thống trữ nước mưa, nước ngọt. Tổng thể tích trữ nước mưa mà chị đang sử dụng vào khoảng 6m3 nhỏ cho gia đình 3 người.

Chị Phương Thảo cho biết: 

“Cũng do tình hình nước nhiễm mặn đều xảy ra hàng năm nên tôi xây ống hồ để chứa nước mưa hoặc nước ngọt để sinh hoạt hằng ngày. Vào năm 2016, khi biết Dự án có hỗ trợ nguồn vốn cho vay xây ống hồ, tôi làm hồ sơ đăng ký vay trong 24 tháng với mức vay là 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ.”

Chị phấn khởi chia sẻ: “Xây được 2 ống hồ tôi rất vui, lợi ích lắm, không có ống hồ là giờ nhà tôi phải dùng nước măn như những năm trước, rồi sinh hoạt tắm rửa rất bất tiện. Sắp tới đây tôi dự định là sẽ tiếp tục vay vốn để làm thêm 2 cái ống hồ nữa do tình hình nước mặn kéo dài thì sợ sẽ không đủ nước…”

  • Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
  • Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
  • Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
Read more

Bình Đại (Bến Tre): Tập huấn kỹ thuật cho 15 cán bộ dự án Tín dụng tiết kiệm

15 nhóm trưởng và thành viên dự kiến của dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại (tỉnh Bến Tre) đã được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết về quản lý, điều hành và sinh hoạt nhóm thông qua lớp tập huấn diễn ra từ ngày 17-19/2.

Cán bộ chuyên trách chủ trì tập huấn

Lớp tập huấn nhằm tạo điều kiện để các nhóm tiết kiệm và vay vốn được tiếp cận với những kiến thức cần thiết về lĩnh vực vốn vay, tiếp cận và quản lý tốt nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế tại địa phương.

Trong 03 ngày diễn ra tập huấn, các cán bộ dự án đã giúp các học viên nắm bắt được một số vấn đề chung về tín dụng, nhóm tín dụng; phát triển, quản lý và điều hành nhóm vay vốn, giới thiệu về hoạt động của dự án (mục đích hoạt động, đối tượng khách hàng, chính sách vay vốn, huy động tiết kiệm bắt buộc…); hướng dẫn về cách lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ và một số kỹ năng tại buổi đi thực tế trong quá trình vận hành và quản lý nguồn vốn của Dự án .
Dưới sự hướng dẫn của các cán bộ dự án tại địa bàn, 15 học viên đã có được những hiểu biết nền tảng về tín dụng, nhóm tín dụng cũng như việc phát triển và quản lý và điều hành nhóm vay vốn

Bên cạnh đó, các nhóm trưởng tham gia cũng được cán bộ chuyên trách giải đáp một số vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện công tác vay vốn tại cơ sở, cách nắm bắt thông tin vay vốn…

Với những kiến thức, kỹ năng được trang bị, sau khi hoàn thành lớp tập huấn, các học viên đã có thêm sự tự tin, sẵn sàng trong tiếp cận quản lý nguồn vốn của dự án, để giúp cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế tại địa phương.

“Thông qua lớp tập huấn, Ban quản lý mong muốn mỗi học viên sau này sẽ là một cộng tác viên đắc lực cho Ban quản lý dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại trong công tác vận hành và quản lý nguồn vốn thời gian tới”, bà Võ Thị Bé Hai – Phó Trưởng ban quản lý Dự án chia sẻ.

Tập huấn Tín dụng tiết kiệm
  • Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
  • Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
  • Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
Read more

MCNV hưởng ứng tinh thần Ngày Quốc tế về Người khuyết tật 3/12

Ngày Quốc tế về Người khuyết tật (ngày 03/12) do Chương trình Thế giới Hành động về Người khuyết tật khởi xướng và được Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1992. Ngày này được ra đời nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết về vấn đề khuyết tật và huy động hỗ trợ cho nhân phẩm, quyền và phúc lợi của người khuyết tật, nâng cao nhận thức của các chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong mọi cộng đồng về việc lồng ghép và tích hợp vần đề người khuyết tật trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Một trọng tâm chính của lễ kỷ niệm ngày Quốc tế về Người khuyết tật hằng năm là vận động chính sách để ban hành các luật lệ và chuẩn mực quốc tế và quốc gia liên quan đến người khuyết tật và quyền của người khuyết tật được tham gia bình đẳng vào mọi lĩnh vực trong phát triển xã hội. Mỗi năm Liên hiệp quốc sẽ công bố một chủ đề khác nhau cho ngày này.

Chủ đề của Ngày quốc tế Người khuyết tật năm 2019 là “Thúc đẩy sự tham gia và lãnh đạo của người khuyết tật: hành động vì Chương trình nghị sự phát triển đến năm 2030”. Chủ đề năm nay chú trọng vào tăng cường vị thế của người khuyết tật vì sự phát triển hòa nhập, công bằng và bền vững như đã dự kiến trong Chương trình nghị sự về Sự phát triển Bền vững đến năm 2030 trong đó cam kết “không để ai bị bỏ lại phía sau” và nhận thức về khuyết tật như là một chủ đề xuyên suốt trong quá trình thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững.

Hằng năm, MCNV phối hợp với các đối tác để tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày 3/12 với tinh thần ủng hộ và hỗ trợ tối đa các hoạt động thức đẩy quyền của người khuyết tật, thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm của người khuyết tật, tôn vinh đóng góp của người khuyết tật vào quá trình phát triển của xã hội. /.

Read more

Giúp hàng trăm em bé Chăm H’roi ngoan khỏe

Cách thành phố Tuy Hòa hơn 100 km về phía Tây Bắc, xã vùng cao Phú Mỡ, huyện Ðồng Xuân (Phú Yên) biệt lập với đồng bằng. Ở đây có 100% bà con là người Chăm H’roi. 25% số trẻ bị suy dinh dưỡng. Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã thống kê như trên và tổ chức này đã phối hợp cùng địa phương giúp cho các em bé có những bữa ăn cũng như cuộc sống tốt hơn.

Lo suy dinh dưỡng

Trái với cái tên toát lên vẻ trù phú, màu mỡ, Phú Mỡ được biết đến là xã “3 nhất” của tỉnh Phú Yên: “cao nhất, xa nhất, nghèo nhất”.

Với nhân khẩu hơn 3000 người, 100% là dân tộc Chăm H’roi, hơn 70% người dân ở đây thuộc hộ nghèo, cận nghèo. Đồng bào sống bằng nghề chính là nương rẫy, thu nhập chủ yếu dựa vào cây sắn, giá cả không ổn định nên đời sống rất bấp bênh. Cơm, lá sắn, rau rừng, muối ớt là những thực phẩm chính trong bữa ăn hàng ngày.

Theo khảo sát của MCNV và trường Đại học (ĐH) Y Dược Huế vào tháng 3/2018, 76,7% hộ gia đình xã Phú Mỡ và Xuân Quang 1 (huyện Đồng Xuân) không có đủ lương thực thực phẩm ăn trong một năm. Trong khu dân cư, các cửa hàng tạp hóa chỉ bán mì tôm, cháo ăn liền, bánh kẹo. Ở trường mầm non cũng không tổ chức ăn bán trú hay ăn sáng, do không đủ kinh phí.

Bởi vậy, ở xã Phú Mỡ, cứ trung bình trong 100 trẻ thì có đến 25 trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi hoặc thiếu cân. Cá biệt ở một số thôn tỉ lệ này lên đến trên 50%.

Chị Mang Thị Sự, 25 tuổi, có hai con: một trai (6 tuổi) và một gái (3 tuổi). Hai bé đều vàng vọt, xanh xao vì kém ăn, suy dinh dưỡng. Mỗi lần đến bữa, chị Sự phải mất rất nhiều công sức dỗ con ăn mà các bé vẫn lắc đầu quầy quậy.

Chị Mang Thị Sự chuẩn bị bữa ăn cho gia đình

Theo MCNV, bên cạnh nguyên nhân điều kiện kinh tế eo hẹp, thì nhận thức về dinh dưỡng còn hạn chế của các hộ gia đình cũng góp phần dẫn đến tình trạng này. Ngay cả những hộ có khả năng tiếp cận với thực phẩm đầy đủ hơn, trẻ vẫn biếng ăn, suy dinh dưỡng, do chế độ ăn thiếu các vi chất cần thiết.

Thay đổi nhận thức

Từ tháng 6/2018, những lo lắng của chị Mang Thị Sự và các chị em trong xã Phú Mỡ bắt đầu được giải tỏa nhờ dự án “Nhân rộng các sáng kiến phòng chống suy dinh dưỡng dựa trên các giải pháp nông nghiệp tại khu vực miền núi Việt Nam và Lào” (gọi tắt là tiếp cận Dinh dưỡng – Nông nghiệp – Nutrition Sensitive Agriculture – NSA) do MCNV triển khai.

Tham gia dự án, lần đầu tiên chị Sự được học những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng, biết cách vào bếp chế biến những món ăn ngon miệng, đủ chất cho trẻ mà vẫn vừa túi tiền.

Đơn giản như cùng một số tiền, chị Sự đã biết cách đa dạng hóa các nguyên liệu thực phẩm, chế biến những món dễ ăn, phù hợp với khẩu vị và hệ tiêu hóa của trẻ. Những món ăn trên mâm cơm vừa có màu sắc bắt mắt, vừa hợp khẩu vị trẻ, và quan trọng hơn là giàu dinh dưỡng.

Chị tâm sự, các bé nhà chị bây giờ, thay vì trốn tránh, sợ hãi những giờ ăn, thì hào hứng hẳn. “Món nào có màu sắc rực rỡ nó thích lắm. Bữa nào mà con ăn được  một chén, chén rưỡi là trong lòng mình vui lắm. Nó tự ăn xong nó tự đứng lên cân hỏi mẹ: “Mẹ ơi, con được mấy ký rồi?” người mẹ trẻ kể, mắt lấp lánh niềm vui.

Một người thay đổi rồi đến một nhóm, dần dần hình thành nhiều nhóm. Hàng tháng hoặc hàng tuần, các nhóm phụ nữ lại có một buổi họp mặt, chia sẻ về tình hình sức khỏe, dinh dưỡng của con cái, học hỏi những gương nuôi con khỏe, cập nhật những trường hợp cần theo dõi, chỉ cho nhau cách đi chợ, lên thực đơn, cách chế biến những món ăn bổ dưỡng, vừa túi tiền.

Giải “bài toán” dinh dưỡng

Giúp các hộ gia đình thay đổi nhận thức là một trong rất nhiều những hoạt động hỗ trợ giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng của dự án NSA. Các hoạt động được triển khai với sự tham gia chặt chẽ của bốn bên: y tế, nông nghiệp, giáo dục  và dịch vụ tư nhân.

Dưới sự phối hợp của đội ngũ cán bộ y tế địa phương, các hội thảo, tập huấn cấp huyện, xã và thôn bản được triển khai. Cán bộ y tế, các bà mẹ nhóm trưởng, giáo viên mầm non được tập huấn về dinh dưỡng, vệ sinh môi trường. Trẻ em được khám sức khỏe định kỳ, trẻ bị suy dinh dưỡng nặng được can thiệp điều trị.

Bên cạnh đó, các hộ gia đình được tập huấn tăng gia sản xuất, cải thiện dinh dưỡng từ chính mảnh vườn, thửa ruộng, khoảng sân nhà mình như nuôi gà đẻ trứng, trồng xen canh các loại rau, quả nhiều dinh dưỡng…

Để tăng thêm chất lượng bữa ăn của trẻ, dự án NSA cũng tài trợ cho các trường mầm non cung cấp bữa trưa, bữa sáng tại trường cũng như định hướng cho các thành phần kinh tế tư nhân (hàng ăn, tiệm tạp hóa) kinh doanh những sản phẩm dinh dưỡng như cháo dinh dưỡng, bánh, bột ngũ cốc, góp phần giúp các hộ gia đình tiếp cận với các sản phẩm dinh dưỡng một cách thuận lợi hơn.

Dự án NSA được MCNV triển khai tại huyện Đồng Xuân trong giai đoạn 2017-2020, với sự phối hợp của các đối tác là tổ chức phi chính phủ WOTRO, trường Đại học Vrije Amsterdam (Hà Lan); Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Y Dược Huế.

Không chỉ giải quyết vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam, dự án NSA còn hỗ trợ trẻ em Lào tại 10 thôn của huyện Nong – tỉnh Savannakhet. Hiện tại, phía Lào đã hoàn thành khảo sát ban đầu, được chia sẻ kiến thức và bộ công cụ khảo sát định lượng nghiên cứu, được tập huấn về phương pháp nghiên cứu, phân tích số liệu, xây dựng kế hoạch can thiệp và đã tổ chức một số hoạt động can thiệp bước đầu.

Dự án dinh dưỡng của MCNV là một nỗ lực hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững số 2 (SDG 2) của Liên hợp quốc về xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và phát triển nông nghiệp bền vững.

Phi Yến (Báo Thời đại)

Read more

Hợp tác và Xây dựng Mạng lưới Nâng cao Giáo dục và Dinh dưỡng

Bối cảnh

Cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực tiếp tục là một ưu tiên trong hoạt động của MCNV tại Lào, đặc biệt là tại các khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống. Dinh dưỡng và an ninh lương thực liên hệ mật thiết với nhau và đòi hỏi các tiếp cận liên ngành như Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội quốc Gia của chính phủ Lào đã nêu rõ: “Dinh dưỡng là một trong những lĩnh vực đang đối mặt với những thách thức trong quá trình triển khai bởi nó liên quan chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác như an ninh lương thực, tiếp cận và tiêu dùng lương thực. Việc đối mặt với các vấn đề này đòi hỏi sự hợp tác hiệu quả và chia sẻ trách nhiệm giữ các cơ quan hữu quan như y tế, giáo dục, nông nghiệp, môi trường, công nghiệp và thương mại..v.v.”[1].

Hành động của MCNV

Tại Lào, gần đây MCNV đã bắt đầu chương trình “Hợp tác và Xây dựng Mạng lưới Nâng cao Giáo dục và Dinh dưỡng”, viết tắt là CANTEEN. Đây là một chương trình 4,5 năm (Từ 01/2017 – 06/2021) do EU tài trợ 75% ngân sách. Chương trình tập trung nâng cao năng lực cho các Tổ chức dân sự xã hội (CSO) và chính quyền địa phương (LA) để cùng hợp tác hướng đến các mục tiêu phát triển. Chương trình có 2 mục tiêu cụ thể như sau:

  1.  Xây dựng năng lực cho ít nhất 6 chính quyền địa phương, 1 tổ chức phi lợi nhuận  và 20 ban phát triển thôn để cùng họp tác và cung cấp các dịch vụ liên quan đến dinh dưỡng nhằm cải thiện an ninh lương thực, dinh dưỡng và đời sống cho hơn 6,000 người dân tộc thiểu số ở 20 thôn vùng sâu vùng xa ở huyện Nong, tỉnh Savannakhet.
  2. Tăng cường năng lực về đối thoại chính sách và tăng cường sự tham gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các quan hệ đối tác đa ngành để khuyến khích nhân rộng các mô hình thành công và tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự trong tiến trình phát triển.

Ở chương trình CANTEEN, MCNV hợp tác chặt chẽ với CODA – một tổ chức phi lợi nhuận tại Lào và Sở Y tế Savannakhet để thúc đẩy làm việc hợp tác và tập thể giữa các cơ quan chính quyền địa phương và các tổ chức dựa vào cộng đồng ở huyện Nong nhằm cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực ở cấp huyện và cấp thôn. Những kinh nghiệm và bài học rút ra từ công tác điều phối đa ngành này sẽ được chia sẻ với các đối tác liên quan ở cấp tỉnh và quốc gia là những người đang làm việc cùng nhau để cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực ở Lào.

Các kết quả mong đợi

Trong 4,5 năm triển khai dự án, chương trình CANTEEN sẽ hỗ trợ hàng loạt hoạt động để đạt được các kết quả mong đợi sau:

Kết quả 1.1: Các bên tham gia như chính quyền địa phương, tổ chức dân sự xã hội, tổ chức dựa vào cộng đồng (CBO) được tăng cường năng lực để cung cấp các dịch vụ dinh dưỡng hiệu quả cho những nhóm người dễ bị tổn thương và bị gạt ra ngoài lề xã hội đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hoạt động này cần tăng cường năng lực cho tổ chức và cán bộ của các LA và CSO. Các phương thức xây dựng năng lực cụ thể sẽ được thiết kế dựa trên các phân tích về các khoảng trống hiện tại và nhu cầu tương lai của mỗi tổ chức tham gia. Đối với 20 Ban phát triển thôn, chương trình sẽ sử dụng những nguồn tài trợ nhỏ để hỗ trợ họ cải thiện các kỹ năng bằng cách thực hành chu trình của những dự án thí điểm nhỏ.

Kết quả 1.2Giảm suy dinh dưỡng và mất an ninh lương thực ở các thôn thuộc dự án thông qua áp dụng cách tiếp cận hội tụ giữa các bên liên quan chủ chốt về y tế, nông nghiệp và giáo dục. Hoạt động này được thiết kế đặc biệt để minh chứng tính hiệu quả của cách tiếp cận này trong việc giảm các trường hợp suy dinh dưỡng và mất an ninh lương thực ở các thôn được lựa chọn. Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm việc cùng nhau để đạt được kết quả cuối cùng. Tất cả những can thiệp đến cách ngành (như giáo dục, nông nghiệp và y tế) được thiết kế chú trọng đến dinh dưỡng và hướng đế tạo ra các bằng chứng về các cách làm giúp giảm thiểu mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng. Các cách tiếp cận được đề xuất này đã đề cập đến 14 trong 22 hoạt động ưu tiên được xác định trong Chiến lược dinh dưỡng quốc gia đến năm 2025 và Kế hoạch hành động 2016 – 2020 được thiết kế để giảm suy dinh dưỡng nhanh chóng và bền vững, chú trọng vào bình đẳng giới và quyền của phụ nữ và trẻ em gái.

Kế quả 2.1: Tăng cường tính hiệu quả cho môi trường thể chế của các CSO và LA với mạng lưới mạnh hơn để có khả năng vận động cho các cách tiếp cận bền vững sử dụng các bằng chứng từ can thiệp của dự án. Điều này cho thấy cách tiếp cận bền vững và được nhân rộng ở huyện Nong, sử dụng các bằng chứng đã có để biện luận cho việc nhân rộng, sửa đổi ở các khu vực khác tại Lào. Chương trình sẽ tăng cường các liên kết với các mạng lưới dân sự xã hội như Liên minh tăng cường dinh dưỡng. Hoạt động này sẽ gia tăng giá trị cho các kế hoạch của chính phủ Lào khi họ đang mở rộng các cách tiếp cận hội tụ ở các tỉnh khác, gồm cả tỉnh Savannakhet và sẽ tìm kiếm bằng chứng và hỗ trợ việc triển khai và mở rộng hiệu quả.

[1] Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội quôc gia 5 năm 2016 – 2020: phần 1: thành tựu và các bài học kinh nghiệm, Lào.

Read more