Tin tức

Khóa Thạc sỹ Ngôn ngữ trị liệu đầu tiên: Nhìn lại một hành trình

Một buổi học trên giảng đường của sinh viên khóa Thạc sỹ Kỹ thuật Phục hồi chức năng, chuyên ngành Ngôn ngữ trị liệu, ĐH Y Dược TP.HCM

Vượt qua những trở ngại do đại dịch COVID-19 gây ra, tháng 11/2021, 14 học viên chương trình Thạc sỹ Kỹ thuật Phục hồi chức năng, chuyên ngành Ngôn ngữ trị liệu (NNTL) tại Đại học (ĐH) Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đã bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp. Đây cũng chính là khóa Thạc sỹ NNTL đầu tiên được đào tạo trong nước, đánh dấu bước khởi sắc quan trọng trong phát triển chuyên ngành này tại Việt Nam.

Khoảng trống lớn trong đáp ứng nhu cầu can thiệp ngôn ngữ trị liệu

Ngôn ngữ trị liệu (NNTL) là một ngành sức khỏe ứng dụng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ những người có khiếm khuyết, rối loạn về ngôn ngữ, giao tiếp và nuốt. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới những rối loạn, khiếm khuyết này, như hội chứng tự kỷ, bại não, khuyết tật trí tuệ, chấn thương sọ não, đột quỵ, bệnh Parkinson, dị tật sứt môi, hở hàm ếch, ung thư vùng đầu – cổ…Tình trạng không thể nói hoặc nói ú ớ, lắp bắp, phát âm bị méo…gây trở ngại nghiêm trọng đối với hoạt động giao tiếp, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống, tạo những rào cản không nhỏ đối với việc hòa nhập xã hội cũng như tiếp cận giáo dục và cơ hội phát triển nghề nghiệp.

Trên thế giới, NNTL đã có lịch sử gần 100 năm, tính từ cột mốc là sự ra đời của tổ chức chuyên môn đầu tiên về NNTL tại Mỹ (ASHA). Ngày nay, NNTL đã trở nên phổ biến tại châu Âu, Australia và một số nước phát triển khác. Tại Việt Nam, NNTL được biết tới khoảng 10 năm trở lại đây, bắt đầu dưới hình thức các khóa đào tạo ngắn hạn tại Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Trường ĐH Y Hà Nội, Trường ĐH Y Dược Huế và Trường ĐH KT Y-Dược Đà Nẵng.

Nhu cầu về NNTL tại Việt Nam là rất lớn. Theo Điều tra Quốc gia về Người Khuyết tật tại Việt Nam năm 2016, hơn 7% dân số 2 tuổi trở lên – khoảng hơn 6,2 triệu người, là người khuyết tật (thuộc một trong các dạng: vận động, nghe, nhìn, thần kinh, v.v). Dù không có thống kê chính thức về số người cần trị liệu ngôn ngữ, theo nghiên cứu “Disability in Vietnam 1999: A Meta-analysis of the Data” (Kane, 1999) 17-27% trong tổng số người khuyết tật tại Việt Nam có vấn đề về “ngôn ngữ”.

Mặc dù nhu cầu can thiệp ngôn ngữ trị liệu là rất lớn, nhưng việc đáp ứng nhu cầu còn là rất hạn chế. Theo nghiên cứu “Khảo sát Nhu cầu Đào tạo Ngôn ngữ trị liệu tại Việt Nam” do MCNV thực hiện năm 2018, ở thời điểm cuối năm 2017, Việt Nam chỉ có khoảng 65 người được đào tạo và có kiến thức, kỹ năng cần thiết để cung cấp dịch vụ kể trên. Trước nhu cầu bức thiết này, từ cuối năm 2017, với nguồn tài trợ từ Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thông qua tổ chức VietHealth và tư vấn chuyên môn từ tổ chức Trinh Foundation Australia (TFA), Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) bắt đầu hỗ trợ cho việc xây dựng và triển khai các khóa đào tạo chính quy đầu tiên về NNTL tại Việt Nam, bao gồm chương trình Thạc sỹ tại ĐH Y Dược Tp.HCM và chương trình Cử nhân tại trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng.

Hành trình vượt khó

Một buổi học về khe môi, hở hàm ếch trong khóa đào tạo Thạc sỹ NNTL tại ĐH Y Dược Tp.HCM

Khóa đào tạo Thạc sỹ NNTL tại ĐH Y Dược Tp.HCM được chính thức bắt đầu từ tháng 11/2019, với tổng cộng 14 học viên, là các cán bộ, giảng viên đến từ ĐH Y Dược Tp. HCM, trường ĐH Y Dược Huế, trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng, trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương và trường Trung cấp Y tế tỉnh Tây Ninh. Triển khai trong hai năm đầy biến động do đại dịch COVID-19, khóa đào tạo Ths NNTL đầu tiên của Việt Nam đã phải vượt qua không ít thách thức, đặc biệt là khi đợt bùng dịch nghiêm trọng nhất xảy ra trùng với giai đoạn thực hành lâm sàng và chuẩn bị đề tài tốt nghiệp của các học viên trong năm 2021. Nhằm giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do đại dịch, MCNV và các đối tác đã phối hợp chặt chẽ, cùng tìm các giải pháp thích ứng phù hợp nhất, đảm bảo tiến độ chương trình và chất lượng đào tạo, mà cụ thể là chuyển đổi hình thức giảng dạy và thực hành từ trực tiếp sang trực tuyến, vừa đảm bảo an toàn cho giảng viên, học viên đồng thời đảm bảo chất lượng, tiến độ đào tạo.

Cụ thể, từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra, phần lớn hoạt động dạy – học đã được dự án thực hiện online, duy trì đều đặn trên nền tảng Zoom. Các kỳ lâm sàng được chuyển sang hình thức online do các chuyên viên NNTL Việt Nam hướng dẫn trực tiếp, các chuyên gia quốc tế làm cố vấn từ xa. Hoạt động thảo luận ca bệnh được thực hành qua video, sử dụng thông tin ca bệnh ảo từ ngân hàng ca bệnh Simucase. Xuyên suốt quá trình chuẩn bị cho đề tài tốt nghiệp, các học viên nhận được sự hỗ trợ sát sao của các giảng viên ĐH Y Dược Tp.HCM và các trường ĐH tại Australia. Để tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình này, dự án có trợ lý hỗ trợ sắp xếp lịch họp trực tuyến giữa các cặp học viên – giáo sư hướng dẫn có kèm phiên dịch, tư vấn để học viên xác định mục đích, nội dung, phương pháp nghiên cứu.

Những “trái ngọt” đầu tiên và triển vọng

Với những nỗ lực thích ứng, đầu tháng 11/2021, 14/14 học viên đã hoàn thành việc bảo vệ luận văn tốt nghiệp, với những đề tài được Hội đồng phản biện đánh giá cao về tính mới mẻ, hàm lượng khoa học, và ý nghĩa ứng dụng lâm sàng như các nghiên cứu về nói lắp, công cụ đánh giá âm lời nói ở trẻ nhỏ, khuyết tật giao tiếp, nhu cầu đào tạo về NNTL của nhân viên PHCN dựa vào cộng đồng…

Học viên Thạc sỹ Kỹ thuật Phục hồi chức năng, chuyên ngành NNTL (ĐH Y Dược TP.HCM) bảo vệ luận văn tốt nghiệp tháng 11/2021.

Bên cạnh đó, Dự án cũng đã tạo ra những kết quả bền vững bước đầu như hỗ trợ tăng cường năng lực cho nhân sự của Bộ môn PHCN của ĐH Y Dược Tp. HCM trong việc xây dựng đề án đào tạo trình Bộ GD&ĐT để xin cấp phép mở một mã ngành hoàn toàn mới ở trình độ thạc sỹ.

Với thành công được cấp mã đào tạo thạc sỹ KT PHCN, ĐH YD Tp. HCM đã được cấp phép để đào tạo cả chuyên ngành Hoạt động trị liệu và Vật lý trị liệu chứ không chỉ là NNTL. Dự án đã mua và cung cấp cho hai trường là ĐH Y Dược Tp. HCM và trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng các máy móc, trang thiết bị dạy học cơ bản để áp dụng trong đào tạo NNTL. Các trang thiết bị này được sử dụng lâu dài sau khi Dự án kết thúc. Đồng thời, dự án cũng tạo cơ hội và kết nối giảng viên, các trường ĐH đối tác, học viên tham gia các khóa đào tạo với chuyên gia, mạng lưới các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực NNTL trên thế giới.

Một buổi học lâm sàng trên ca bệnh từ Simucase của sinh viên khóa Cử nhân Ngôn ngữ trị liệu trường ĐH Y Dược Đà Nẵng

Trên nền những hỗ trợ và kết quả của Dự án mang lại, các trường ĐH được hưởng lợi từ Dự án đã có những bước khởi động để hướng tới đào tạo lâu dài và bên vững bậc Cử nhân NNTL cho lực lượng làm công tác PHCN ở Việt Nam. Cụ thể, ĐH Y Dược Tp. Hồ Chí Minh đã tiếp tục tuyển sinh khóa ThS. NNTL thứ hai với trọng tâm đào tạo đội ngũ hướng dẫn lâm sàng tại các đơn vị bệnh viện. Trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương đã tuyển sinh khóa Cử nhân NNTL đầu tiên của trường và cũng là khóa cử nhân NNTL thứ hai trên toàn quốc, sau khóa thí điểm của Dự án ở trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng. Những bước khởi đầu hướng đến duy trì và phát huy tính bền vững của Dự án đang thể hiện nhiều triển vọng phát triển cho ngành NNTL ở Việt Nam./.

Read more

Vun trồng những mùa vui

Giữa cái nắng oi ả ban trưa đầu mùa khô ở Bắc Hướng Hóa, anh Hồ Văn Dinh, 49 tuổi, ở thôn Nguồn Rào Pin (xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), một tay cầm rựa, men theo ven suối, thoăn thoắt sải bước tiến về hướng ngọn núi Tà Bang sừng sững.

Sau đợt thiên tai lịch sử diễn ra vào tháng 10/2020, những vết nứt lớn đã xuất hiện trên núi Tà Bang. Để đảm bảo an toàn cho bà con trước nguy cơ sạt lở, chính quyền địa phương đã khẩn trương tổ chức di dời 32 hộ dân sinh sống quanh chân núi tới nơi ở mới.

Sau một hồi leo dốc liên tục trên quãng đường gập ghềnh gần 2km, anh Dinh dừng lại, chỉ tay vào lô đất trống ngổn ngang đất đá ở lưng chừng núi: “Ở đó, anh trồng trẩu và lát hoa. Diện tích lô này là 1,6 héc-ta”. Từ xa nhìn lại, nơi anh Dinh nói tới trông giống như một vùng đất trống đồi trọc cằn cỗi, không gì có thể mọc nổi ngoài những vạt cỏ hoang và vài đám cây bụi thấp lưa thưa.

Thế nhưng, tiến lại gần một chút, là đã có thể thấy được thấp thoáng màu xanh tươi mới của những cây trẩu non, cao tầm một gang tay, đang vươn lên khỏi mặt đất, xen kẽ cùng những cây lát hoa.

Cây trẩu hơn 3 tháng tuổi trước đỉnh núi Tà Bàng. Ảnh: MCNV

“Nhà anh có 3 đứa con trai đều đã lập gia đình. Những cây này là vợ chồng anh, các con trai và con dâu cùng trồng trong 3-4 ngày liên tục. Trồng hơn 3 tháng rồi, nay anh có thể nói chắc chắn tỷ lệ sống của cây là gần 100% đấy”, anh Dinh hồ hởi kể, trong khi hai tay hối hả vun đất cho cây.

Gia đình anh Dinh là một trong 100 hộ gia đình ở 4 thôn (Hồ, Nguồn Rào Pin, Ra Ly Rào và Xy Ry) thuộc 2 xã Hướng Sơn và Hướng Phùng được dự án “Thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững giữa chủ rừng nhóm hộ gia đình và doanh nghiệp trong thực hiện quản lý rừng bền vững nhằm ứng phó biến đổi khí hậu” (viết tắt: PROSPER) do Liên minh châu Âu (EU) và MCNV đồng tài trợ.

Anh Hồ Văn Dinh vun đất trồng trẩu. Ảnh: MCNV

Năm 2021, dự án PROSPER đã hỗ trợ một phần kinh phí nhân công lao động cho 100 hộ kể trên trồng trẩu hỗn giao với các loài cây bản địa khác (lõi thọ, lát hoa, xoan nhừ) với tổng diện tích 139,4 héc-ta. Công thức trồng cho mỗi héc-ta là 1.333 cây, bao gồm 1.067 cây trẩu và 266 cây bản địa khác.

Cũng trong năm 2021, MCNV đã thí điểm trồng trẩu chống sạt lở ở một số địa điểm thuộc các xã Hướng Sơn, Hướng Lập và Hướng Việt với tổng diện tích 42 héc-ta. Trước đó, trong năm 2020, dự án cũng đã hỗ trợ 2 thôn khác ở xã Hướng Phùng trồng rừng tương tự trên diện tích gần 120 héc-ta. Như vậy, tính đến nay, sau 2 năm, dự án PROSPER đã hỗ trợ người dân ở khu vực Bắc Hướng Hóa trồng rừng trên tổng diện tích khoảng 300 héc-ta.

Trồng trẩu góp phần giữ đất, giữ nguồn nước. Ảnh: MCNV

“Trồng trẩu trước hết là để góp phần giữ đất, giữ nguồn nước. Cây này dễ trồng và phù hợp với thổ nhưỡng ở đây”, anh Dinh tiếp tục chia sẻ. “Về lâu dài, cây này đem lại lợi ích kinh tế. Cứ đến mùa quả trẩu chín, nhà nào cũng đi nhặt hạt trẩu bán để có thêm thu nhập.”

Theo anh Dinh, trong mấy năm gần đây, hạt trẩu tươi có giá bình quân khoảng 5.000đ – 6.000đ/kg, còn hạt trẩu đã phơi khô thì có giá cao hơn gần gấp đôi. Khi được hỏi gia đình anh kiếm thêm thu nhập khoảng bao nhiêu từ một vụ thu hoạch hạt trẩu, anh cười xòa: “Chịu thôi, anh không biết tính toán. Chỉ biết là có thêm tiền để mua mắm, mua muối, mua lương thực cho gia đình”.

Biết được giá trị của cây trẩu, anh Dinh và gia đình đã trồng trẩu từ hơn 10 năm trước trên một lô đất khác của gia đình có diện tích 1,2 héc-ta, cách lô đất mới trồng không xa. Mỗi vụ thu hoạch đến, khi quả trẩu chín, vợ chồng anh lại đến đó thu nhặt hạt để bán.

Hạt trẩu được các doanh nghiệp sử dụng để sản xuất dầu trẩu, như một nguyên liệu trong công nghiệp vật liệu phủ gỗ, véc-ni, sơn, mực in…, được ưa chuộng bởi khả năng bảo vệ, tạo vẻ bóng, đẹp tự nhiên, bền chắc cho đồ nội thất, công trình xây dựng.

Theo một khảo sát do MCNV thực hiện năm 2020, khu vực Bắc Hướng Hóa có khoảng 2.400 héc-ta trẩu trồng xen và 300 héc-ta trồng phân tán hộ gia đình, tạo nên sản lượng hạt khô lên đến 1.500 tấn, có giá trị kinh tế tương đương 15 tỷ đồng/năm. Ước tính, mỗi héc-ta rừng trẩu, nếu được trồng và chăm sóc tốt, sau 4 năm cho sản lượng 3-4 tấn hạt khô, đem lại giá trị kinh tế 30-40 triệu đồng/năm.

Nhận ra giá trị kinh tế và môi trường từ cây trẩu, gần đây, huyện Hướng Hóa đã đưa cây trẩu vào danh mục các loài cây trồng trọng điểm trong kế hoạch thực hiện đề án trồng 1 tỷ cây xanh của Chính phủ giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị./.

Read more

Webinar: Hoạt động trị liệu trong Phục hồi chức năng bàn tay

Bàn tay đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các sinh hoạt sống hàng ngày. Di chứng của các tổn thương do tai nạn bệnh lý…có thể ảnh hưởng không nhỏ tới chức năng bàn tay của người bệnh. Hoạt động trị liệu (HĐTL), đặc biệt là với các dụng cụ trợ giúp có tác dụng hỗ trợ người bệnh lấy lại sự độc lập, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Nhằm tăng cường cơ hội trao đổi kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này, Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) tổ chức buổi sinh hoạt chuyên đề Phục hồi chức năng: “Tầm với không giới hạn”, với các diễn giả đến từ khoa Hoạt động trị liệu, Trường Y khoa Manipal (thuộc Manipal Academy of Higher Education) – (MAHE) Ấn Độ).

Thời gian: 14h00 – 16h00 ngày Chủ nhật 16 tháng 01 năm 2022

Hình thức: trực tuyến trên nền tảng Zoom (có phiên dịch ngôn ngữ Anh – Việt). Đăng ký tại: https://bit.ly/3f8pbNG

*Hạn đăng ký: 14/01/2022

(Vui lòng sử dụng tên thật để đăng ký – Link tham dự sự kiện sẽ được gửi tự động tới các đại biểu đã đăng ký).

Thông tin chi tiết, vui lòng liên hệ:

Ms.Từ Phi Yến (Cán bộ Truyền thông MCNV): yen.tuphi@mcnv.vn

Nội dung:

I. Thuyết trình:

1/ Vai trò của dụng cụ trợ giúp đơn giản trong cải thiện kết quả chức năng. (Tiến sĩ HĐTL Shovan Saha, giảng viên MAHE)

2/ Vai trò của nẹp và bài tập trị liệu trong ca bệnh thương tổn mất da kiểu lột găng ở bàn tay. (CN.Nguyễn Khắc Tuấn, giảng viên ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương, học viên Cao học HĐTL MAHE).

3/ Ứng dụng của nẹp trong phục hồi chức năng bàn tay (CN.Phạm Ngọc Đạt, ĐH Y Dược TP.HCM, học viên Cao học HĐTL MAHE).

II. Thảo luận chung

Read more

Trồng phục hồi rừng ở các điểm sạt lở

Tháng 11 vừa qua, người dân thôn Ra Ly Rào (xã Hướng Sơn, Hướng Hóa) mang theo hạt trẩu và dụng cụ lao động đến các điểm sạt lở ở cánh rừng tự nhiên do người dân thôn này quản lý và bảo vệ để trồng lại rừng. Những điểm sạt lở này do thiên tai gây ra vào cuối năm 2020, mỗi điểm rộng hàng nghìn m2.

10ha rừng bị sạt lở ở thôn Ra Ly Rào (xã Hướng Sơn) được người dân trồng cây trẩu để phục hồi rừng. Ảnh: Phan Tân Lâm

Sau một năm, các điểm sạt lở vẫn không có cây cối mọc lên, thậm chí là cỏ dại. Đợt này, người dân Ra Ly Rào trồng cây trẩu trên diện tích 10ha. Đây là đợt trồng cây phục hồi rừng ở các điểm sạt lở đầu tiên tại huyện Hướng Hóa. Việc trồng phục hồi rừng được thực hiện dưới sự tài trợ của Liên Minh Châu Âu/EU và MCNV (Dự án PROSPER).

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Điều phối viên chương trình, cho hay người dân được hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ một phần tiền công trồng rừng. “Chúng tôi sẽ theo dõi, đánh giá khả năng bám rễ, giữ đất của cây trẩu ở các điểm sạt lở, tham vấn các bên liên quan rồi mới có phương án nhân rộng”, ông Tùng cho hay. Theo UBND tỉnh Quảng Trị, đợt mưa lũ cuối năm 2020 khiến 326ha rừng tự nhiên bị sạt lở, thiệt hại 100%.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Điều phối viên chương trình (ngoài cùng, trái) cho biết: Người dân được hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ một phần tiền công trồng rừng. Ảnh: Phan Tân Lâm

Tham gia trồng cây, chị Hồ Thị Chung, cho biết rất phấn khởi vì được hỗ trợ trồng lại rừng, vừa phủ xanh, chống sạt lở, lâu dài cây trẩu cho quả để có thêm thu nhập. “Tôi mong muốn dự án hỗ trợ trồng thêm ở nhiều điểm sạt lở khác”, chị Chung nói. Ngoài ra, Dự án PROSPER còn hỗ trợ người dân các xã Hướng Phùng, Hướng Sơn trồng trẩu, lõi thọ, lát hoa, xoan nhừ trên diện tích đất lâm nghiệp hộ gia đình. Đây là đất trống đồi trọc, không được nông dân canh tác do chất lượng đất không tốt và nông dân không có năng lực tài chính để trồng rừng.

Chị Hồ Thị Chung, một thành viên tham gia trồng rừng. Ảnh: Phan Tân Lâm

Việc này nhằm tăng độ che phủ rừng, tạo thêm sinh kế và thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua việc thu nhặt hạt trẩu và chi trả dịch vụ môi trường rừng ở vùng rừng trồng thuộc lưu vực thủy điện. Trong năm 2021, Dự án PROSPER hỗ trợ trồng rừng trên diện tích gần 140ha ở các xã Hướng Phùng và Hướng Sơn. Trong năm 2020, Dự án PROSPER cũng đã hỗ trợ hơn 70 hộ gia đình ở các thôn Chênh Vênh và Mã Lai Pun (xã Hướng Phùng, Hướng Hóa) trồng rừng trẩu xen với cây lõi thọ trên diện tích gần 120 ha đất lâm nghiệp giao cho hộ gia đình quản lý. MCNV đã và đang chia sẻ mô hình thông qua mạng lưới các tổ chức, nhà tài trợ trong và ngoài nước để tìm kiếm thêm sự hợp tác nhân rộng mô hình.

Trẩu là cây bản địa ở huyện Hướng Hóa, trước đây thường mọc tự nhiên, những năm gần đây được người dân trồng để lấy hạt. Cây trẩu thường mọc ở vùng đất khô, ráo nước ở trong rừng thưa hoặc ven rừng rậm. Cây trung bình cao 10 đến 15m. Hạt trẩu được người dân bán với giá 8 đến 12 nghìn đồng mỗi kg hạt khô, dùng để ép lấy dầu, dùng trong công nghiệp sản xuất sơn, véc-ni, vật liệu phủ gỗ, mực in, keo bảo vệ vi mạch điện tử../.

Hoàng Táo

Read more

Chuỗi cung ứng cà phê bền vững: Những khởi sắc bước đầu

Những ngày đầu tháng 11 năm 2021, xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị trở nên tấp nập, nhộn nhịp hơn ngày thường. Cà phê chuẩn bị vào giai đoạn thu hoạch cao điểm. Năm nay hứa hẹn một vụ mùa nhiều khởi sắc khi cà phê chín rộ và giá cao hơn so với mọi năm.

“Cà sắp chín rồi. Khi mô doanh nghiệp Hội An ký hợp đồng thu mua rứa hè?”. Đây là câu hỏi thường nhật của Hồ Văn Số – trưởng nhóm nông dân người Bru-Vân Kiều tại thôn Xa Ry, xã Hướng Phùng, dành cho cán bộ MCNV trong mỗi lần gặp.

Nhóm nông dân thôn Xa Ry là một trong các nhóm đã tham gia liên kết với Công ty Hội An Roastery và đơn vị chế biến tại xã Hướng Phùng từ nhiều năm qua, dưới sự hỗ trợ kết nối và thúc đẩy hợp tác kinh doanh của Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV). Qua nhiều sóng gió, thăng trầm, mối quan hệ hợp tác liên kết giữa các bên ngày càng bền chặt, củng cố thêm niềm tin về một hành trình phát triển chuỗi cung ứng cà phê bền vững.

Anh Hồ Văn Số thu hoạch cà phê.

Những khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của dịch Covid, đặc biệt từ năm 2019 đến 2020, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và tiềm ẩn nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng cà phê đã được thiết lập và củng cố trong những năm qua. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh mới và tìm kiếm các nguồn lực phát triển. MCNV hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài trợ của Quỹ Khí hậu và Phát triển Hà Lan (DFCD) thông qua đề xuất dự án “Thúc đẩy liên kết sản xuất cà phê Arabica nông-lâm kết hợp giữa Công ty TNHH Hoi An Roastery (HAR) và nông dân tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam”.

Tài liệu giới thiệu về Chương trình RA cho các nhóm nông dân

Mục đích của dự án nhằm tăng cường thực hiện phương thức sản xuất theo hợp đồng (contract farming) và sản xuất cà phê có chứng nhận nhằm cải thiện chuỗi cung ứng, góp phần vào sự phát triển cà phê bền vững tại tỉnh Quảng Trị.

Cán bộ MCNV chủ trì cuộc họp liên kết niên vụ cà phê 2021

Năm 2021 đánh dấu bước ngoặt lớn với sự tham gia Chương trình Chứng nhận Rainforest Alliance (RA) trong giai đoạn 2021- 2025 với tầm nhìn đến năm 2030. Nếu thực hiện một cách đầy đủ, Chương trình sẽ mang lại thu nhập tốt hơn cho người sản xuất cà phê, gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, và giải quyết nhiều vấn đề lớn về mặt xã hội, môi trường, năng suất và chất lượng…

“Trước đây, khi chưa tham gia với doanh nghiệp, phần lớn bà con nông dân, cả người bản lẫn người Kinh, bán cà phê cho thương lái, đại lý thu mua tại thôn”, chị Hồ Thị Nương, thành viên nhóm Xa Ry chia sẻ. “Họ mua mấy thì mình bán mấy, vì bà con không biết bán cho ai”. Hiện tượng “tranh mua, tranh bán” diễn ra phổ biến trên địa bàn. Khả năng, mức độ và cơ hội tiếp cận thị trường của người nông dân rất hạn chế dẫn đến việc thu hái ồ ạt, không đảm bảo chất lượng cà phê chế biến, và ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, sản lượng của cây cà phê những năm tiếp theo.

Trong một vòng tròn lẩn quẩn mà không thể xác định điểm bắt đầu và điểm kết thúc, câu chuyện về giá bán, năng suất, sản lượng, đầu tư mua phân bón, kỹ thuật và khả năng canh tác…luôn là nỗi lo thường trực đối với người nông dân trồng cà phê. Việc mua nợ phân bón và trả nợ bằng tiền bán cà phê quả tươi dẫn đến tình trạng người nông dân lệ thuộc hầu như hoàn toàn vào các đại lý vừa thu mua cà phê, vừa cung cấp phân bón.

“Sau khi tham gia liên kết, bà con bán cà cho doanh nghiệp với yêu cầu hái chọn, chất lượng tốt hơn và giá hợp đồng cũng cao hơn so với thị trường. Các nhóm có quyền thương thảo hợp đồng trước khi ký kết. Bà con được thanh toán tiền kịp thời và trả nợ mua phân bón trước đây dần dần nên cũng đỡ”.

Những năm về sau, nhiều nông dân tham gia hợp tác liên kết đã bắt đầu thay đổi phương cách đầu tư trên vườn cà phê. Anh Số bổ sung: “Như tôi đây, năm 2020 đã bắt đầu chặt bỏ cây già, cho năng suất thấp và tập trung đầu tư khoảng hai nghìn cây trên một héc-ta. Thà làm ít mà chất lượng thì tốt hơn làm nhiều. Như vậy sẽ đầu tư ít tiền phân hơn, ngoài ra tôi còn trồng thêm các cây khác như cây tiêu để có thêm thu nhập khác mà lại che bóng tốt cho cây cà phê”. Trong tháng 10 năm 2021, MCNV tổ chức các đợt tập huấn, giới thiệu tổng quan về Chương trình chứng nhận Rainforest Alliance và các tiêu chuẩn cần tuân thủ. “Ban đầu bà con thấy rất khó khăn vì có rất nhiều yêu cầu trong khi bà con chưa quen với việc phải ghi chép nhật ký nông hộ, theo dõi vườn…”,  anh Võ Chánh Thi ở thôn Đại Độ bày tỏ. “Nhưng rõ ràng có rất nhiều lợi ích cho bà con. Chưa kể đến việc cải thiện chất lượng và sản lượng, khi tham gia thì các nhóm hoàn toàn an tâm về vấn đề cung ứng cà phê với giá cao và ổn định. Ngoài việc mua cà phê giá cao hơn so với thị trường, doanh nghiệp sẽ trả thêm cho bà con một ‘khoản chênh lệch’ khi tham gia Chương trình chứng nhận”.

Cà phê tươi được vận chuyển tới xưởng chế biến.

Trong niên vụ 2021 có 7 nhóm nông dân tham gia liên kết với tổng số thành viên trên 50 người, trong đó gần 40% là người dân tộc thiểu số. Hợp đồng giữa các bên đang được ký kết, theo đó các nhóm nông dân đáp ứng được chất lượng và khối lượng cà phê quả tươi mà doanh nghiệp yêu cầu thì được hưởng mức giá chênh lệch cao hơn nhiều so với giá thị trường.

Cùng tham gia vào hoạt động cân đo, kiểm tra, ghi chép sau mỗi lần nhập

Trong niên vụ 2021 có 7 nhóm nông dân tham gia liên kết với tổng số thành viên trên 50 người, trong đó gần 40% là người dân tộc thiểu số. Hợp đồng giữa các bên đang được ký kết, theo đó các nhóm nông dân đáp ứng được chất lượng và khối lượng cà phê quả tươi mà doanh nghiệp yêu cầu thì được hưởng mức giá chênh lệch cao hơn nhiều so với giá thị trường.

Nhân viên ngân hàng hỗ trợ mở tài khoản cá nhân cho người dân tham gia dự án.

MCNV đóng vai trò xúc tiến, hỗ trợ, tư vấn và giám sát toàn bộ quá trình từ khâu thành lập nhóm và nâng cao năng lực quản lý nhóm, xây dựng và hoàn thiện hợp đồng, cung ứng và chế biến cà phê, sổ sách ghi chép, quản lý chất lượng, xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá… Bên cạnh đó, MCNV đã kết nối với ngân hàng tại địa phương hỗ trợ mở tài khoản cá nhân cho các thành viên nhóm để tiếp nhận tiền thanh toán từ doanh nghiệp, đảm bảo tính minh bạch và kịp thời.

Với niềm tin thành công, niên vụ 2021 sẽ là bước đệm quan trọng đầu tiên trong hành trình tham gia Chương trình Chứng nhận Rainforest Alliance./.

Read more

Rừng tự nhiên đầu tiên được cấp chứng chỉ quốc tế

Dự án PROSPER qua góc nhìn của phóng viên Vnexpress tháng 11/2021.

https://vnexpress.net/rung-tu-nhien-dau-tien-duoc-cap-chung-chi-quoc-te-4383793.html?fbclid=IwAR1pbkRwfK7o7WuE1TkL6v00Cszg5T5sA5uuzjix2kUMzRArHT-CP4VzV7U

Read more

Việt Nam lần đầu tiên đào tạo thành công Thạc sĩ Ngôn ngữ trị liệu

Trong hai ngày 3 và 5/11/2021, 14 học viên chương trình Thạc sỹ (ThS) Kỹ thuật Phục hồi chức năng (PHCN) chuyên ngành Ngôn ngữ trị liệu (NNTL) tại Đại học Y Dược TP. HCM đã bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp. ThS.Bs.Phạm Dũng, Giám đốc MCNV Việt Nam đã đến dự sự kiện và chúc mừng các tân Thạc sĩ.

Khóa đào tạo thuộc hoạt động Phát triển Đào tạo NNTL tại Việt Nam – một hợp phần của dự án DISTINCT do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ, tổ chức VietHealth là chủ dự án, MCNV đảm nhiệm vai trò thực hiện, với đối tác kỹ thuật là tổ chức Trinh Foundation Australia (TFA).

Lễ bảo vệ luận án diễn ra trong hai ngày, 3&5/11/2021 tại ĐH Y Dược Tp.HCM. Ảnh: ĐH Y Dược Tp.HCM

Triển khai trong hai năm đầy biến động do đại dịch COVID-19, khóa đào tạo Ths NNTL đầu tiên của Việt Nam đã phải vượt qua không ít thách thức, đặc biệt là khi đợt bùng dịch nghiêm trọng nhất xảy ra trùng với giai đoạn thực hành lâm sàng và chuẩn bị đề tài tốt nghiệp của các học viên.

Nhằm giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do đại dịch, MCNV và các đối tác đã phối hợp chặt chẽ, cùng tìm các giải pháp thích ứng phù hợp nhất, đảm bảo tiến độ chương trình và chất lượng đào tạo.

Từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra, phần lớn hoạt động dạy – học đã được dự án thực hiện online, duy trì đều đặn trên nền tảng Zoom. Các kỳ lâm sàng được chuyển sang hình thức online do các chuyên viên NNTL Việt Nam hướng dẫn trực tiếp, các chuyên gia quốc tế làm cố vấn từ xa. Hoạt động thảo luận ca bệnh được thực hành qua video, sử dụng thông tin ca bệnh ảo từ ngân hàng ca bệnh Simucase. Xuyên suốt quá trình chuẩn bị cho đề tài tốt nghiệp, các học viên nhận được sự hỗ trợ sát sao của các giảng viên ĐH Y Dược Tp.HCM và các trường ĐH Australia.

Các đề tài luận văn tốt nghiệp vừa qua đã được Hội đồng phản biện đánh giá cao về tính mới mẻ, hàm lượng khoa học, và ý nghĩa ứng dụng lâm sàng.

Những kết quả nghiên cứu sẽ lần lượt được MCNV công bố trên
Website: http://speechtherapyvn.net/
Fanpage https://www.facebook.com/ngonngutrilieu.mcnv/

ThS.BS.Phạm Dũng, Giám đốc MCNV Việt Nam (thứ 3, phải) chúc mừng các học viên đã bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp. Ảnh: ĐH Y Dược Tp.HCM

Hy vọng các thông tin sẽ đóng góp vào nguồn tài liệu hữu ích của giới chuyên môn và đưa NNTL đến gần hơn với cộng đồng. Việc hoàn thành khóa đào tạo ThS NNTL đầu tiên tại Việt Nam là dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện và phát triển của một chuyên ngành còn non trẻ và hết sức mới mẻ tại Việt Nam.

Thành quả này sẽ không thể đạt được nếu không có sự giúp sức quý báu của TFA, ĐH Y Dược Tp.HCM, các bệnh viện, các chuyên gia, giảng viên NNTL trong và ngoài nước và sự nỗ lực hết mình của các học viên. MCNV xin chân thành cảm ơn tất cả các đối tác và hi vọng đây sẽ là tiền đề cho những hợp tác hiệu quả, lâu dài, đóng góp cho sự phát triển bền vững của ngành PHCN Việt Nam./.

Read more

TẶNG THIẾT BỊ Y TẾ CHO 13 BỆNH VIỆN, TRUNG TÂM Y TẾ PHÍA NAM

50 máy theo dõi bệnh nhân là món quà hỗ trợ phòng chống dịch mà Quỹ Philips, Công ty Philips Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (MCNV) gửi tặng 13 bệnh viện, trung tâm y tế tại TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai.

Ngày 28/9, tại TP. HCM, đại diện Quỹ Philips, công ty Philips Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ bàn giao monitor theo dõi bệnh nhân đầu tiên cho Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.

Ngày 28/9, tại TP. HCM, đại diện Quỹ Philips, công ty Philips Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ bàn giao monitor theo dõi bệnh nhân đầu tiên cho Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.

Máy theo dõi bệnh nhân là thiết bị quan trọng trong điều trị COVID-19 diễn biến nặng, có chức năng cập nhật các chỉ số sinh tồn của người bệnh, giúp các y bác sĩ đánh giá sát sao hơn tình trạng bệnh, từ đó đưa ra chẩn đoán chính xác và hướng điều trị phù hợp.

Từ cuối tháng 4 năm 2021, Việt Nam đương đầu với làn sóng COVID-19 thứ 4 với tỷ lệ lây nhiễm ngày càng gia tăng và lan rộng đến hơn 60 tỉnh, thành phố. Điều này dẫn tới thiếu hụt nghiêm trọng các trang thiết bị, nhất là tại các bệnh viện chuyên điều trị COVID-19 ở các tâm dịch phía Nam. Trong bối cảnh này, Quỹ Philips, công ty Philips Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã quyết định dành tặng 50 máy monitor theo dõi sức khỏe bệnh nhân gửi tới 13 bệnh viện, trung tâm y tế tại TP.HCM, Bình Dương và Đồng Nai.

Máy theo dõi bệnh nhân là thiết bị quan trọng trong điều trị COVID-19 diễn biến nặng, có chức năng cập nhật các chỉ số sinh tồn của người bệnh.

Từ cuối tháng 4 năm 2021, Việt Nam đương đầu với làn sóng COVID-19 thứ 4 với tỷ lệ lây nhiễm ngày càng gia tăng và lan rộng đến hơn 60 tỉnh, thành phố. Điều này dẫn tới thiếu hụt nghiêm trọng các trang thiết bị, nhất là tại các bệnh viện chuyên điều trị COVID-19 ở các tâm dịch phía Nam. Trong bối cảnh này, Quỹ Philips, công ty Philips Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã quyết định dành tặng 50 máy monitor theo dõi sức khỏe bệnh nhân gửi tới 13 bệnh viện, trung tâm y tế tại TP.HCM, Bình Dương và Đồng Nai.

Từ Hà Lan, Giám đốc Quỹ Philips, bà Margot Cooijmans bày tỏ tin tưởng rằng việc trao tặng máy theo dõi bệnh nhân sẽ mang lại lợi ích thiết thực đối với công tác chăm sóc, điều trị bệnh nhân COVID-19 tại các bệnh viện và trung tâm y tế ở Việt Nam trong hiện tại cũng như đáp ứng nhu cầu dài hạn về thiết bị y tế trong tương lai.

Bàn giao thiết bị tại Bệnh viện dã chiến số 6 ngày 29/9/2021

Theo ông Hugo Luik, Tổng Giám đốc Công ty Philips Việt Nam, sự ủng hộ này thể hiện cam kết đồng hành cùng ngành y tế Việt Nam của doanh nghiệp. “Chúng tôi mong rằng những hỗ trợ sẽ làm giảm thiểu tình trạng thiếu hụt thiết bị y tế tại các bệnh viện dã chiến của Việt Nam, nơi đang điều trị cho một số lượng rất lớn bệnh nhân nặng”, ông Hugo Luik cho biết.

Về phía MCNV, Giám đốc MCNV Việt Nam, thạc sỹ, bác sĩ Phạm Dũng chia sẻ: Có thể đồng hành cùng quỹ Philips đưa các thiết bị y tế tới đúng nơi cần là vinh dự của MCNV. MCNV hi vọng dịch COVID-19 sẽ sớm được kiểm soát, cuộc sống, học tập, lao động sản xuất của người dân sẽ nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường.

Chiều  30/9/2021, việc bàn giao 50 máy cho 13 cơ sở y tế đã hoàn tất.

Read more

Đánh giá chứng chỉ rừng FSC lần đầu tiên đối với rừng cộng đồng ở Việt Nam

(VOV5) Dự án “Thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững giữa chủ rừng nhóm hộ gia đình và doanh nghiệp trong thực hiện quản lý rừng bền vững do Liên minh châu Âu và Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đang đồng hành cùng tỉnh Quảng Trị trong công tác bảo vệ và trồng rừng bền vững. Sau thời gian triển khai ở các địa phương, dự án PROSPER – quản lý rừng theo tiêu chuẩn FSC đã mang đến giải pháp tạo sinh kế bền vững, tăng thu nhập cho người dân nghèo nơi đây.

Ngày quốc tế FSC năm 2021 (24/09) với chủ đề “Chống biến đổi khí hậu và lâm nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu”.

“Trước đây, chúng tôi không hề biết chứng nhận FSC nghĩa là gì. Bây giờ chúng tôi hiểu rằng FSC là một chứng nhận quốc tế trong quản lý rừng bền vững, và nếu rừng chúng tôi được chứng nhận FSC thì điều đó có nghĩa là người ta thừa nhận rừng cộng đồng thôn chúng tôi được quản lý và bảo vệ tốt, lâm sản ngoài gỗ từ rừng cộng đồng chúng tôi có thể được mua với giá tốt hơn, các nhà tài trợ có thể quan tâm hỗ trợ chúng tôi nhiều hơn trong công tác quản lý và bảo vệ rừng”, ông Hồ Văn Chiến, Trưởng Ban quản lý rừng cộng đồng thôn Chênh Vênh (xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), chia sẻ bên lề lớp tập huấn về quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC do Hội các nhóm hộ có chứng chỉ rừng Quảng Trị (Hội CCR Quảng Trị) và MCNV phối hợp tổ chức.

Ông Hồ Văn Chiến chia sẻ ý kiến tại hội thảo các bên tham vấn về quản lý Rừng bền vững.

Quả thực như ông Chiến nói, hơn 20 thành viên Ban quản lý rừng cộng đồng thôn Chênh Vênh đều tỏ vẻ ngơ ngác, hoặc cúi mặt, hoặc cười ngượng và ngó lơ khi cán bộ tập huấn hỏi xem có ai biết hoặc từng nghe nói về chứng chỉ quản lý rừng FSC chưa. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu. Ở Việt Nam, khái niệm “chứng chỉ FSC” vẫn còn mơ hồ với phần lớn công chúng ở miền xuôi, kể cả với những người có tham gia trồng rừng, huống hồ đây là những bà con ở khu vực miền núi quanh năm chủ yếu gắn bó với nương rẫy để lo cái ăn cho gia đình và cái học cho con cái. Và, chỉ khi được cán bộ tập huấn của Hội Chứng chỉ Rừng Quảng Trị giải thích về chứng chỉ rừng FSC và lí do tại sao nên tham gia chứng chỉ rừng FSC, mọi người mới vỡ lẽ và một không khí hào hứng, sôi nổi thảo luận về cách trồng, công tác quản lý và bảo vệ rừng như thế nào ở địa phương.
Đó là chuyện diễn ra cách đây chưa lâu. Vậy mà bây giờ chính những người nông dân chân chất này đang chuẩn bị sẵn sàng cho kỳ đánh giá FSC giai đoạn 2021-2025 của Hội CCR Quảng Trị, trong đó có diện tích 774 ha rừng cộng đồng mà họ là thành viên tham gia quản lý. Hoạt động đánh giá này dự kiến sẽ diễn ra trong tháng 10/2021. Được biết, đây sẽ là lần đầu tiên ở Việt Nam, rừng tự nhiên giao cho cộng đồng quản lý tham gia chứng nhận FSC lâm sản ngoài gỗ. Cùng tham gia kỳ đánh giá chứng chỉ FSC lần này ở khu vực miền núi còn có rừng cộng đồng thôn Hồ với diện tích khoảng 800 ha ở xã Hướng Sơn lân cận, cách thôn Chênh Vênh khoảng 20km.

Người dân và cán bộ dự án thảo luận về bản đồ hiện trạng rừng cộng đồng ở thôn Chênh Vênh

Ban quản lý rừng cộng đồng thôn Chênh Vênh và Ban quản lý rừng cộng đồng thôn Hồ là những chi hội quản lý rừng tự nhiên ở miền núi đầu tiên của Hội Chứng chỉ Rừng Quảng Trị, được kết nạp vào Hội lần lượt vào năm 2020 và 2021. Bên cạnh 2 chi hội rừng tự nhiên cộng đồng, Hội CCR Quảng Trị hiện có 37 chi hội khác là những chi hội thành viên trồng rừng keo gỗ lớn ở các huyện đồng bằng ở Quảng Trị, với tổng số thành viên là 538 hộ gia đình và tổng diện tích tham gia FSC là 4.399 ha (trong đó có 2.837 ha diện tích rừng trồng keo gỗ lớn & 1.562 ha diện tích rừng tự nhiên giao cộng đồng quản lý).
Thời gian qua, với sự hỗ trợ của dự án “Thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững giữa chủ rừng nhóm hộ gia đình và doanh nghiệp trong thực hiện quản lý rừng bền vững nhằm ứng phó biến đổi khí hậu” (dự án PROSPER) do Liên minh châu Âu và MCNV đồng tài trợ, nhiều hoạt động khác nhau đã được thực hiện một cách tích cực nhằm giúp hai cộng đồng thôn Chênh Vênh và thôn Hồ có sự chuẩn bị tốt cho đợt đánh giá.

Hướng dẫn điều tra trữ lượng tre trong cộng đồng Chênh Vênh

Song song với các hoạt động tập huấn, hội thảo cung cấp kiến thức về quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC, các hoạt động khảo sát, đánh giá liên quan cũng được thực hiện đối với 02 rừng cộng đồng này: điều tra trữ lượng mây & tre, đánh giá rừng có giá trị bảo tồn cao, đánh giá tác động môi trường & xã hội. Kết quả của những đánh giá này được sử dụng để giúp hai Ban quản lý rừng cộng đồng củng cố kế hoạch quản lý rừng bền vững, bao gồm kế hoạch phát triển và khai thác bền vững đối với lâm sản ngoài gỗ (LSNG), đồng thời được bổ sung vào kế hoạch chiến lược của Hội Chứng chỉ Rừng Quảng Trị giai đoạn 2021-2025. Ngoài ra, trong hai năm qua (2020 -2021), với sự hỗ trợ từ dự án PROSPER, người dân ở các thôn miền núi đã trồng mới hơn 300.000 cây trẩu và cây bản địa tại khu vực Bắc Hướng Hóa.

Paneau truyền thông về Rừng ở thôn Chênh Vênh

Chứng nhận FSC đối với lâm sản ngoài gỗ rừng cộng đồng có ý nghĩa quan trọng đối với Hội Chứng chỉ Rừng Quảng Trị và hai cộng đồng thôn Chênh Vênh và thôn Hồ trên các phương diện kinh tế, môi trường & xã hội: Nâng cao giá trị kinh tế lâm sản ngoài gỗ. Thu hút sự quan tâm đầu tư và hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật lẫn chính sách đối với những Ban quản lý này; Thúc đẩy tạo việc làm và thu nhập cho cộng đồng; Thúc đẩy bảo vệ, trồng và làm giàu rừng; Góp phần bảo vệ môi trường rừng; …
Tháng 6/2021, Hồ Xa Lăng đã tham gia cùng đại diện lãnh đạo Hội CCR Quảng Trị và một số đơn vị khác đi học hỏi mô hình trồng, khai thác và cung ứng mây bền vững ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Anh hy vọng trong những năm tới cây mây ở rừng cộng đồng thôn Hồ cũng được phát triển, bảo vệ và khai thác một cách hiệu quả, được cung ứng ra thị trường thông qua kết nối với doanh nghiệp có trách nhiệm về quản lý & bảo vệ rừng, góp phần cải thiện sinh kế cho bà con trong thôn.

Anh Hồ Xa Lăng ( giữa) giới thiệu về rừng cộng đồng thôn Hồ cho một nhóm tư vấn

Từ chỗ hoàn toàn lạ lẫm với khái niệm “chứng chỉ FSC”, nhiều người dân ở thôn Chênh Vênh và thôn Hồ như ông Hồ Văn Chiến và anh Hồ Xa Lăng đang thay đổi tư duy để những cánh rừng của cộng đồng mình dần dần được quản lý và bảo vệ tốt hơn “theo tiêu chuẩn quốc tế”.

Chứng chỉ rừng FSC là chứng nhận chuỗi hành trình sản phẩm, do Hội đồng quản trị rừng quốc tế đã xây dựng với bộ 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí. Chứng nhận quản lý rừng FSC® được chấp nhận trên toàn cầu và có giá trị trong 5 năm. Tuy nhiên, mỗi năm FSC đều đánh giá để kiểm tra các nhà sản xuất có tuân thủ các cam kết về quả lý rừng bền vững hay không.

Nguồn: https://vovworld.vn/vi-VN/xa-hoi-doi-song/danh-gia-chung-chi-rung-fsc-lan-dau-tien-doi-voi-rung-cong-dong-o-viet-nam-1028988.vov

Read more

Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập Điện Biên mở rộng cửa đón học sinh

Hướng dẫn trẻ tập vẽ trên màn hình tương tác, một hoạt động giúp tăng cường kỹ năng vận động tinh.

Năm học 2021-2022, Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tỉnh Điện Biên sẵn sàng đón thêm 50 học sinh, nâng tổng số học sinh đang được can thiệp tại đây lên 90 em. Tin chi tiết được đăng tải trên báo Giáo dục & Thời đại: Link:

https://giaoducthoidai.vn/ket-noi/trung-tam-ho-tro-phat-trien-gd-hoa-nhap-tinh-dien-bien-mo-rong-cua-don-hoc-sinh-4V1cLH47R.html

Read more